Phần 2/7
Phần 3/7
Phần 4/7
Phần 5/7
Phần 6/7
Phần 7/7
*
Huyền bí sông Hằng là tên bộ phim ký sự về con sông Hằng dài 2.510 km bắt nguồn từ dãy Hymalaya của Bắc Trung Bộ Ấn Độ, xuôi theo hướng Đông Nam qua Băngladesh và chảy vào vịnh Bengal.
* Đối với nhiều người dân VN, kiến thức về vùng đất và đời sống dân cư vùng Nam Á này vẫn còn là ẩn số giống như những truyền thuyết. Hành trình ký sự Huyền bí sông Hằng sẽ xuyên qua ba quốc gia: Ấn Độ, Nepal và Băngladesh.
* Ở Ấn Độ, khán giả sẽ được thấy đền Bahai, Iscok, Daksha Mahadev cùng đền thờ Nữ thần sông Hằng trên các bãi tắm thiêng, di tích hành hương cổ Haridwar được bảo tồn trong sự sùng kính của người dân qua hàng thế kỷ.
* Huyền bí sông Hằng cũng đưa khán giả đến Lumbini -- quê hương của Đức Phật nằm dưới chân núi Hymalaya khoảng 24 km về phía Nam.
* Bên cạnh đó, khán giả sẽ được chiêm ngưỡng một loạt ngôi đền thiêng: đền Mayadevi có hai bức phù điêu tinh xảo mô tả cảnh hoàng hậu Mayadevi với vị hoàng tử trẻ ở phía bên phải bà, ngoài đền có bồn nước lớn, hoàng tử Sidhartha đã được tắm tẩy trần lần đầu tiên tại đây; đền Niết Bàn che chở bức tượng Phật dài 6 mét trong tư thế nằm được khai quật vào năm 1876 khắc bằng chữ sa thạch Chunar...
* Đặc biệt, Huyền bí sông Hằng cũng sẽ đưa khán giả thuyền dọc các bãi tắm thiêng. Khán giả sẽ được chứng kiến nhịp sống của người dân bắt đầu lúc 3h sáng ở bãi tắm thiêng Varanasi cho đến 8h tối. Ngay khi mặt trời mọc, dọc sông Hằng có thể thấy hàng trăm tín đồ Hindu ngâm mình trong nước và dâng nước lên thần Mặt Trời...
* Đây là một phim phóng sự hay và đầy đủ về sự hình thành phật Giáo tại Ấn Độ, con đường truyền giáo của Phật Thích Ca Mâu Ni, các tìm hiểu thâm thúy về Yoga có từ lâu đời ở xứ Ấn, những con người tu khổ hạnh, cuộc sống nhân dân ở đất nước này, ....
Karla caves
Bhaja caves
Bedsa Caves 1000 years old.
Ajanta
Ajanta Caves
Water Falls, Ajanta Caves
Reclining Buddha carved in the Ajanta Caves in Northern India,
dating to the 2nd century B.C
Tranh vẽ trong Ajanta Caves
Temptation of Mara, painting of mural in Cave 1, Ajanta,
1875-1876, Museum no. IS.13-1885
Ajanta Bodhisattva
- AJANTA một di tích Phật Giáo ngoại-hạng.
Kính chuyển
Phật giáo là một trong những tôn giáo lâu đời nhất của nhân loại vẫn còn tồn tại và đang phát triển ngày nay. Tuy nhiên theo dòng biến động của lịch sử thì Phật giáo cũng không tránh khỏi những thăng trầm. Nếu Phật giáo đã từng gián tiếp hay trực tiếp mang lại chữ viết, văn hóa, triết học và lịch sử cho một số quốc gia trên địa cầu và đánh dấu một cấp bực tiến hóa cao độ cho kho tàng tư tưởng của nhân loại thì Phật giáo cũng đã từng bị hủy diệt ở Ấn độ và nhiều nơi khác.
Chúng ta đều biết đến ngôi đền Phật giáo lớn nhất thế giới là Borobudur ở Inđônêxia được khám phá trong vùng rừng rậm của đảo Java vào đầu thế kỷ XIX và ngày nay đã hồi sinh để trở thành một nơi chiêm bái và một thắng cảnh du lịch trong lòng một quốc gia Hồi giáo. Tuy nhiên có lẽ ít ai biết về di sản tuyệt vời khác của Phật giáo là Ajanta cũng đã được khám phá một cách thật tình cờ vào đầu thế kỷ XIX để ngày nay trở thành một nơi hành hương tại Ấn độ, nơi mà Phật giáo đã phát sinh và đã từng biến mất.
Bài viết ngắn dưới đây sẽ tường thuật lại sự khám phá ly kỳ đó và mô tả sơ lược di tích quý giá này kèm theo một mẫu chuyện để chúng ta cùng suy tư.
Một sự tình cờ lý thú
Ngày 28 tháng 4 năm 1819, có một toán quân lính người Anh thuộc đạo quân viễn chinh ở Ấn độ cưỡi ngựa đi tuần tra dọc theo dãy núi Indhyadri trong một vùng hẻo lánh phía đông bắc tỉnh Aurangabad, tiểu bang Maharashtra nơi miền Tây bắc nước Ấn. Đoàn lính tiến dần vào một hẻm núi thật sâu và hoang dã. Dưới chân họ con suối Waghora chảy xiết, ôm sát vào chân núi và luồn sâu vào hẻm vực. Đại úy John Smith thuộc đội kỵ mã thứ 28 của đoàn kỵ binh đóng ở Madras đang lơ đãng nhìn lên sườn núi dựng đứng thì chợt thấy dường như có những cửa hang trên vách đá. Khá tò mò vì các cửa hang có vẻ không phải là thiên nhiên mà do tay người đục khắc, anh chàng sĩ quan này bèn nhảy xuống ngựa và tìm cách trèo lên vách núi để xem cho biết. Lanh quanh một lúc thì anh ta tìm được cách trèo lên được vì nơi này có nhiều bậc thang khá hẹp đục vào vách đá. Sau khi lên đến nơi thì anh ta cũng chỉ quan sát qua loa cảnh tượng hiện ra trước mắt rồi phải trèo xuống vì các đồng đội còn đang đứng chờ bên dưới. Tuy nhiên anh chàng John Smith vẫn cố lấy bút chì ghi tên mình và ngày tháng vào một góc kín đáo trên một trụ đá ở một cửa hang lớn, và nét bút chì ấy cho đến ngày nay vẫn còn lờ mờ. Sau đó thì các hang động này lại chìm vào sự yên lặng mênh mông của những ngàn năm quá khứ. Tuy nhiên câu chuyện khám phá chớp nhoáng của viên đại úy sau đó thỉnh thoảng cũng vẫn được đồn đại trong đoàn quân viễn chinh.
Năm năm sau, vào tháng 2 năm 1824, có một viên trung úy tên là James Alexander thuộc đạo quân xung kích 16 trong đoàn quân viễn chinh Anh quốc quyết định xin nghỉ phép vài hôm để đi săn. Anh trung úy trẻ này rất say mê săn bắn và vẫn thường mong có dịp đi săn trong hẻm vực Waghora vì anh nghe nói nơi đây có rất nhiều thú nhất là các loài thú dữ, xứng đáng với biệt danh "thung lũng cọp" mà người ta gán cho nơi này. Trước khi lên đường bạn bè trong quân ngũ cảnh giác anh ta là ngoài thú dữ ra còn có nhiều thứ nguy hiểm khác nữa, nhất là bọn thổ dân Bhil sinh sống trong các vùng rừng núi thuộc miền trung và tây bắc nước Ấn. Thổ dân Bhil rất ghét người lạ dám cả gan xâm nhập vào lãnh địa của họ. Mặc dù đã được cảnh giác nhưng James Alexander chẳng đếm xỉa gì đến chuyện ấy vì anh ta rất mê săn heo rừng, beo, báo và cọp.
James Alexander nhờ một người thợ săn địa phương dẫn đường. Vào thời bấy giờ có nhiều thợ săn chuyên nghiệp gọi là shikari, rất thiện nghệ và chuyên phục vụ cho những người giàu có và quý phái tại địa phương hoặc từ Anh Quốc đến và nhất là các sĩ quan thích săn bắn trong đạo quân viễn chinh. Anh trung úy còn dẫn theo hai người lính trong nhóm sepoys, tức là đội lính tập tuyển mộ tại địa phương. Cả bọn trang bị khí giới đủ loại gồm súng ngắn, súng dài, kiếm, lao, mác... và đoàn đi săn cứ thế mà băng rừng tiến vào hẻm núi Waghora.
Khi vừa đến cửa thung lũng nơi có một dòng suối chảy xiết thì bỗng nhiên có tiếng huýt sáo vọng lại từ phía vách núi trước mặt. Cả đoàn dừng lại để lắng nghe động tĩnh, và đúng là có người đang rình rập vì có nhiều tiếng huýt sáo khác đáp lại từ các bụi rậm và hốc đá chung quanh. Quả đúng là đoàn đi săn đang bị thổ dân Bhil phục kích. Mặc dầu sợ hãi nhưng cả đoàn tay cầm khí giới cứ tiến lên , vừa cẩn thận quan sát chung quanh. Bỗng nhiên nhiều thổ dân Bhil cầm cung tên nhô đầu lên từ các bụi rậm, gốc cây và hốc đá. Cũng lạ là họ không tỏ vẻ gì tức giận hay đang chuẩn bị tấn công mà chỉ có vẻ tò mò đưa mắt theo dõi thế mà thôi. Đoàn săn bắn cũng bớt sợ vì họ biết rằng các mũi tên của thổ dân Bhil đều có tẩm thuốc độc. Trung úy James Alexander vẫn giữ được bình tĩnh và nhận thấy người Bhil có thân hình nhỏ thó, da đen sậm và gần như là trần truồng.
Đoàn săn bắn tiếp tục ngược theo dòng suối để tiến vào hẻm vực trong khi các thổ dân Bhil vẫn rình rập phía sau nhưng chỉ quan sát mà không tấn công. Sau cùng thì đoàn săn bắn cũng tiến được vào giữa hẻm núi, khu này có hình vòng cung giống như hình móng ngựa, chiều ngang độ vài trăm mét. Viên trung úy James Alexander vừa canh chừng các thổ dân Bhil vừa quan sát vách núi trước mặt và bất ngờ anh ta trông thấy khoảng hơn một chục miệng hang cheo leo trên vách đá...
Vì tò mò thúc đẩy, trung úy James Alexander bèn ra lệnh cho cả đoàn tìm cách trèo lên để xem. Khi lên được đến nơi thì họ mới biết là các hang đúng là do tay người đục đẽo. Cửa hang hình vòm cung có cột đá chống đỡ và tất cả các hang đều được đục thẳng từ bên ngoài vào trong vách núi. Tường và cột đá ở cửa hang được chạm nổi với các hình người, hình thú vật, hoa, lá.... Một số hang bị đá sụp lấp kín lối vào, nhưng một số hang khác vẫn còn kẻ hở có thể chui vào được. Vô cùng kinh ngạc trước quang cảnh đồ sộ của các cửa hang đang hiện ra trước mặt, James Alexander bèn quyết định chui vào bên trong xem sao. Cả đoàn tìm cành và cỏ khô bó lại làm đuốc rồi chui vào một cửa động. Ánh sáng làm cho hàng ngàn con dơi đang đeo ngược trên trần hoảng sợ bay tán loạn. Trên mặt đất có nhiều đống phân động vật cho biết là có nhiều thú như khỉ, chó rừng, cọp, gấu... đến trú ẩn. Đoàn người lại tìm thấy một cầu thang đưa họ lên các gian phòng ở tầng trên. Tại đây họ thấy có vết tro còn mới và trong một góc tối có một bộ xương người.
Đoàn "thám hiểm" lại tiếp tục chui vào các hang động khác. Một số hang có kích thước nhỏ và không sâu lắm, nhưng có một số hang khác thì thật mênh mông, trần cao vút như trong một ngôi đền đồ sộ. Trong một hang lớn dưới ánh đuốc bập bùng hiện ra trước mặt họ một pho tượng Phật to lớn và oai nghiêm, trên tường trong hang có nhiều bức tranh vẽ rất tinh xảo và tuyệt đẹp, màu sắc rực rỡ. Cả đoàn như bị mê hoặc trước những khám phá ngoạn mục, quên bẵng việc săn bắn và quên cả các thổ dân Bhil còn đang rình rập dưới chân núi. Đến chiều thì họ mới trèo xuống để tìm đường về. Mặc dù không bắn được một con thú nào nhưng tay săn James Alexander không hề thất vọng vì anh ta tin chắc là mình đã khám phá ra một di tích ngoại hạng, một tu viện đồ sộ và tinh xảo đã chìm vào quên lãng, biến mất trong trong trí nhớ của con người từ lâu..., ngoại trừ một số thổ dân Bhil là còn biết đến những di tích đó trong sự thờ ơ. Thật ra thì viên trung úy James Alexander trước khi đi săn cũng không hề nghĩ đến câu chuyện đồn đại về những hang động do đại úy Smith kể lại từ năm năm trước, Tuy nhiên John Smith đơn giản là một người tò mò và chỉ cần biết rằng mình đã trông thấy những hang động trong rừng sâu thế thôi, trong khi đó thì trung úy James Alexander lại tin chắc là mình đã khám phá ra một kỳ quan chưa từng có.
Một thời gian ngắn sau khi tin đồn viên trung úy James Alexander đã khám phá các hang động trong thung lũng Waghora được lan truyền đi khắp nơi thì các nhà khảo cổ kéo đến và họ đều xác nhận đấy là một trung tâm Phật giáo lâu đời và đồ sộ chưa nơi nào sánh kịp. Các nhà khảo cổ bèn mượn tên của ngôi làng gần nhất là Ajanta để đặt tên cho di tích này. Các công cuộc thăm dò tiên khởi đều công nhận là các tranh trên tường trong các hang động rất tiêu biểu cho nghệ thuật tranh vẽ của Ấn độ, và đây là những bức tranh vừa xưa lại vừa đẹp nhất mà trước đó chưa hề được khám phá. Năm 1983, Ajanta được cơ quan UNESCO của Liên Hiệp Quốc xếp vào gia tài văn hóa của nhân loại.
Ajanta là một tu viện Phật giáo gồm 29 hang động đục sâu vào vách núi tạo thành các "ngôi chùa" và "tịnh xá". Vách núi là đá basalt, một loại đá núi lửa rất cứng. Trong số 29 hang động có ba hang còn bỏ dở dang chưa hoàn tất. Theo cách bố trí thì các hang được chia làm hai loại : loại thứ nhất là các hang "chính điện" hay "thiền đường" (chaitya) bên trong cùng là bệ thờ và nơi bệ thờ có một bảo tháp (stupa). Loại hang thứ hai là các hang "tịnh xá" (vihara) là nơi nghỉ ngơi và trú ngụ của tăng đoàn, gồm có một gian tập thể và nhiều phòng nhỏ.
Cách kiến trúc, tranh vẽ và điêu khắc trong hang cho thấy là Ajanta được thực hiện vào hai thời kỳ cách nhau khá xa. Thời kỳ thứ nhất kéo dài từ thế kỷ thứ II trước Tây lịch đến từ thế kỷ thứ I trước Tây lịch và chịu ảnh hưởng rõ rệt của Phật giáo Nguyên thủy (Therevada). Cách trang trí trong thời kỳ này khá đơn giản và kém phần hoa mỹ, đặc biệt nhất là không có một biểu tượng nào tượng trưng cho Đức Phật. Thời kỳ mở mang thứ hai thuộc vào thế kỷ thứ V và chịu ảnh hưởng của Phật giáo Bắc tông, thời kỳ xây dựng này tuy ngắn ngủi nhưng đã thực hiện được nhiều hang động thật đồ sộ, với cách thiết kế phức tạp hơn, trang trí cũng phong phú và màu mè hơn. Các hang động Ajanta có thể đã bị bỏ hoang từ thế kỷ thứ VI, tuy nhiên theo một vài tư liệu khác thì tăng đoàn vẫn còn lưu lại tại Ajanta cho đến thế kỷ thứ VIII trước khi rời bỏ nơi này.
Nơi trú ngụ của Đức Phật và tăng đoàn
Cho đến nay người ta không hoặc chưa tìm thấy được một di tích kiến trúc Phật giáo nào được xây dựng vào thời kỳ Đức Phật còn tại thế, kể cả trong các giai đoạn đầu tiên của các tăng đoàn sau khi Vị Thầy của họ đã tịch diệt. Vào thời kỳ khi Đức Phật còn tại thế thì chưa có chùa chiền như ngày nay vì Đức Phật chủ trương một lối sống hoàn toàn tự do không bị trói buộc vào các sinh hoạt và lo toan thế tục, và cũng không dừng lại một nơi cố định nào cả. Theo lời giáo huấn của Ngài thi nếu người đã tu hành mà còn lăn mình vào những mối bận tâm của thế tục, còn bám víu vào những tiện nghi vật chất và một môi trường sống cố định để nuôi dưỡng thói quen của mình thì nhất định họ sẽ không thể nào tu tập được.
Nếu một người tu hành chưa đủ nghị lực vượt lên trên những trói buộc bên ngoài thì làm thế nào có đủ khả năng để loại bỏ những xung động bên trong tâm thức của chính mình. Dựa theo các kinh sách xưa của Nam tông thì khi Đức Phật còn tại thế chỉ có hai loại "kiến trúc" có mái che hẳn hoi có thể tạm gọi là "nhà cửa" để giúp cho người tu hành che thân và tạm trú. Loại thứ nhất gọi là "avasa", tức là những túp lều do các vị tỳ kheo tự tay cất lấy để tạm trú trên đường hoằng Pháp hoặc để an cư vào mùa kiết hạ. Các "kiến trúc" này thật ra chỉ là những chiếc "am" được dựng lên bằng cành lá của cây rừng hoặc bằng các vật liệu tìm được trong các vùng nông thôn. Các nơi trú ẩn này chỉ có tính cách tạm thời vì sự sinh hoạt của tăng đoàn rất linh động không bám vào một nơi cố định nào cả. Loại "kiến trúc" thứ hai gọi là "arama" hay "vihara" tức là các "tịnh xá" do các người thế tục giàu có cúng dường và rất có thể họ cũng tiếp tục đứng ra phụ giúp tăng đoàn trong việc bảo trì bởi vì Đức Phật và tăng đoàn là những người sống bằng khất thực nên không có tiền của gì cả. Tịnh xá là các kiến trúc cố định khang trang và có tính cách lâu bền hơn các "am cỏ" được dựng lên trên đường hoằng Pháp. Các tịnh xá nổi tiếng nhất được kinh sách ghi chép là vườn Trúc lâm (Venuvana) gần thành Vương Xá (Rajagrha) và vườn Kỳ Viên (Jetavana) gần thành Xá Vệ (Sravasti), và dầu sao thì đấy cũng chỉ là những nơi dừng chân của Đức Phật và tăng đoàn mà thôi. Tuy nhiên Đức Phật thường lưu lại vườn Kỳ Viên nhiều hơn các nơi khác, nhất là trong hai mươi năm trước khi Ngài nhập diệt.
Ngoài các tịnh xá mà kinh sách nói đến thì không có một chứng tích nào khác cho thấy vào thời kỳ Đức Phật còn tại thế đã có các kiến trúc đồ sộ do tăng đoàn hay do người thế tục xây dựng. Tương ưng Bộ kinh (phẩm 10) mô tả vườn Kỳ Viên có "những giảng đường to lớn, các gian phòng tiện nghi, kho chứa, đường đi lót đá...", tuy nhiên cho đến nay các nhà khảo cổ đã không tìm thấy một vết tích nào đáng kể tại vị trí của vườn Kỳ Viên. Các học giả Tây phương cho rằng cách mô tả trên đây của kinh sách có phần phóng đại.
Các nơi trú ngụ xưa nhất của những tỳ kheo Phật giáo mà các nhà khảo cổ khám phá được cho đến nay là các hang động và những hang xưa nhất thì cũng chỉ được thiết kế bắt đầu từ thế kỷ thứ II trước Tây lịch như trường hợp của các hang Ajanta trên đây. Cũng có nhiều di tích Phật giáo xưa hơn, thuộc thế kỷ thứ III trước Tây lịch tức là dưới triều đại của hoàng đế A-dục, đó là các mặt đá và trụ đá ghi khắc chỉ dụ của hoàng triều và nhất là các bảo tháp do chính hoàng đế A-dục ra lệnh xây dựng khắp nơi trên đất Ấn. Tuy nhiên đấy chỉ là những di tích và những kiến trúc thiêng liêng chứ không phải là tu viện hay chỗ ở của tăng đoàn. Các học giả Tây phương nghĩ rằng các tịnh xá (arama) nói chung chỉ là những gian nhà rộng nhưng rất đơn sơ, sườn bằng tre, lợp lá và vách đất, giống như nhà cửa ở nông thôn Ấn độ ngày nay. Các giảng đường hay các tịnh xá lớn chẳng hạn như vườn Kỳ Viên hay Trúc Lâm thì làm bằng cây và gỗ và các kiến trúc bằng "vật liệu nhẹ" và như thế thì không thể nào tồn tại được với thời gian.
Sự hình thành của "Chùa chiền"
Mặc dầu Ajanta được thành lập sau khi Đức Phật đã tịch diệt hơn ba thế kỷ nhưng cũng giúp cho chúng ta một vài ý niệm nào đó để hình dung ra sự sinh hoạt của tăng đoàn vào những thời kỳ xa xưa nhất của Phật giáo. Ajanta là các hang động đục thẳng vào núi đá và sau đó thì bị bỏ quên trong rừng sâu nên vẫn còn giữ được khá nguyên vẹn sau hơn hai ngàn hai trăm năm, quả thật là một di tích vô cùng quý giá. Thật vậy trong suốt thế kỷ XIX các nhà khảo cổ đã khám phá ra rất nhiều di tích Phật giáo rải rác khắp nơi ở Ấn độ, nhưng cho đến nay thì vẫn chưa có một di tích nào cùng loại lại đồ sộ, tinh xảo và lâu đời hơn Ajanta. Trong số này có thể kể ra các hang Bedsa gần thành phố Pune, các hang Bhaja và Kharla gần thành phố Lonavala thuộc tiểu bang Maharashtra nằm trên bờ biển phía tây của nước Ấn, (xem hình phụ lục 1).
Nói chung thì các loại hang động đục thẳng vào vách núi như trên đây cũng gián tiếp giúp hình dung ra "chùa chiền" và các nơi trú ngụ xưa nhất của Đức Phật và các đệ tử của Ngài. Các chuyên gia khảo cổ đã căn cứ vào các chứng tích trong các hang động để hình dung lại "chùa chiền" và "tịnh xá" xây dựng bằng gỗ vào những thời kỳ đầu tiên sau khi Đức Phật tịch diệt, vì theo họ thì hang động được đục dựa vào khuôn mẫu của các kiến trúc ngoài trời, và các kiến trúc này thì tất nhiên phải được xây dựng và thiết kế theo truyền thống đã có từ lâu đời. Thật vậy các hang động Ajanta tuy được đục thẳng vào núi đá nhưng đã kiến tạo lại từng chi tiết một và rập khuôn theo cách kiến trúc bằng gỗ. Người ta nhận thấy trên trần của các gian phòng trong hang có những kèo cột tượng trưng cho xà nhà, hai đầu của các kèo cột lại còn đục thêm dấu vết của các đầu đinh. Vách hai bên cửa hang và bên trong hang được trang trí bằng các cửa sổ giả, gác giả và bậc thềm giả đục tượng trưng trên mặt đá. Dựa vào các chi tiết này người ta có thể hình dung ra kiến trúc của "chùa chiền" vào thời bấy giờ. Tuy nhiên cho đến nay chưa thấy ai có sáng kiến sử dụng cây và gỗ để xây dựng lại ngoài trời các "ngôi chùa cổ xưa" của Phật giáo dựa vào các chi tiết tìm thấy trong hang động.
Cửa hang các tịnh xá có mái hiên hình vòm và cột chống đỡ. Bước vào bên trong là một gian tập thể hình vuông hay chữ nhật dùng làm nơi sinh hoạt chung. Ba mặt vách của gian tập thể thì được đục thêm các "phòng" hay đúng hơn là các "hốc" nhỏ kích thước bằng nhau, dùng làm nơi nghỉ ngơi cho các tỳ kheo. Trong mỗi hốc có hai bệ đá làm giường. Cách thiết kế tổng quát của các tịnh xá cũng không có gì thay đổi nhiều giữa hai thời kỳ phát triển, tuy nhiên các tịnh xá Bắc tông rộng lớn hơn, một số có nhiều tầng và cầu thang thông nhau, đôi khi trong tịnh xá lại còn có thêm một gian dành riêng làm thiền đường và nơi thờ phụng.
Các chính điện (chaitya) tại Ajanta cũng được thiết kế theo cùng một khuôn mẫu như nhau. Chính điện lớn nhất được các nhà khảo cổ đặt tên là hang số 10, thuộc thời kỳ Phật giáo Nguyên thủy, tuy được đục sâu vào vách núi nhưng các hang này lại rập khuôn theo cách kiến trúc bằng gỗ ở ngoài trời. Phần trong cùng của chính điện là bệ thờ có hình bán nguyệt, trần là một vòm cao với các "kèo" hình vòng cung được tạc vào đá nhưng trông giống như làm bằng gỗ, hai đầu kèo chống lên các trụ đá dựng đứng. Vào thời Đức Phật còn tại thế thì chưa có các "chính điện" xây dựng bên cạnh các tịnh xá như trường hợp trên đây vì các tịnh xá thời bấy giờ nhất thiết chỉ là những nơi tạm trú cho tăng đoàn mà thôi. Tuy nhiên theo các học giả Tây phương thì chính điện xuất hiện rất sớm sau khi Đức Phật tịch diệt và được dựng lên bên cạnh các tịnh xá để làm nơi thiền định và đón tiếp người thế tục. Do đó vai trò của tịnh xá cũng biến đổi đi, không còn là nơi tạm trú vào dịp kiết hạ trong mùa mưa bão nữa, sự sinh hoạt của tăng đoàn do đó cũng trở nên cố định hơn.
Trong mỗi chính điện nơi vị trí của bệ thờ đều có một bảo tháp xá lợi. Các bảo tháp này có lẽ đã xuất hiện vào thế kỷ thứ III trước Tây lịch khi hoàng đế A-dục quyết định phân tán và đưa xá lợi đến gần hơn với mọi người trên khắp vùng đế quốc của ông. Kinh sách cho biết là hoàng đế A-dục xây dựng được tất cả 84 000 bảo tháp và bên cạnh mỗi bảo tháp lại còn xây thêm một tu viện và mỗi tu viện phải phụ trách nghiên cứu một chủ đề riêng biệt trong kinh sách. Theo các học giả Tây phương thì con số 84 000 là một con số tượng trưng với ít nhiều phóng đại, nhưng dù cho con số này chỉ có tính cách tượng trưng đi nữa thì cũng phải công nhận là bảo tháp và tu viện hay "chùa chiền" dưới triều đại hoàng đế A-dục cũng thật là nhiều. Bảo tháp được xây dựng khắp nơi có mục đích thay thế cho sự hiện diện của Đấng Thế Tôn. Các vị tỳ kheo dựng lên các chính điện với bảo tháp xá lợi bên trong vừa để thờ phụng vừa để cảm thấy Vị Thầy của mình lúc nào cũng ở bên cạnh mình, đồng thời chính điện cũng được dùng làm nơi để người thế tục đến chiêm bái. Chùa chiền như ngày nay có lẽ cũng đã bắt nguồn từ đấy.
Phụ lục 1: Hình ảnh các hang Ajanta, Bedsa, Bhaja và Kharla
Karla caves
Bhaja caves
Bedsa Caves 1000 years old.
Ajanta
Ajanta Caves
Water Falls, Ajanta Caves
Bên trong Ajanta Caves:
Reclining Buddha carved in the Ajanta Caves in Northern India,
dating to the 2nd century B.C
Tranh vẽ trong Ajanta Caves
Temptation of Mara, painting of mural in Cave 1, Ajanta,
1875-1876, Museum no. IS.13-1885
Ajanta Bodhisattva
No comments:
Post a Comment