Thursday, June 27, 2013

Baby lift VN 1975


Hình ảnh gợi nhớ một khõang thời gian đen tối của Việt Nam tháng 4 1975 những đứa trẻ mồ côi được đưa ra khỏi Việt Nam vì Hoa Kỳ biết tháng ngày còn lại của VNCH không bao xa nữa.
Hình ảnh 3 đứa bé giấc ngủ thật vô tư vì sẽ không bao giờ biết những gì sắp đến cho các em ........

 
Operation Baby lift: Vietnamese orphans transported by airplanes to America in 1975.

Operation Babylift: Chuyện bây giờ mới kể


Trong những ngày đầu tháng 4 năm 1975, Sài Gòn có quá nhiều biến cố: dòng người di tản từ cao nguyên, từ miền Trung dồn dập đổ về thủ đô trong khi quân đội VNCH ngày càng co cụm để bảo vệ Sài Gòn trước làn sóng tràn ngập của lực lượng miền Bắc. Người ta hầu như chỉ nghĩ đến bản thân và gia đình của mình trước đại họa đất nước nên có rất ít người chú ý đến một tin thuộc loại “chấn động” (shock news) nếu như trong thời bình.



Khoảng 4 giờ chiều, Thứ Sáu, ngày 4/4/1975, một chiếc phi cơ vận tải quân sự C-5A Galaxy của Hoa Kỳ mang ký hiệu 68-0218 cất cánh từ phi trường Tân Sơn Nhất trực chỉ Clark Air Base tại Phi Luật Tân. Đó là chuyến bay quân sự đầu tiên di tản các trẻ em mồ côi Việt Nam sang Mỹ trong sứ mạng Operation Babylift do đích thân Tổng thống Gerald Ford tuyên bố một ngày trước đó.



Tin “chấn động” vì chiếc C-5A Galaxy, phi cơ vận tải quân sự lớn nhất của không Hoa Kỳ vào thời điểm 1975, đã bị trục trặc kỹ thuật và rơi trong khi cố quay lại đường băng 25L Tân Sơn Nhất. Tai nạn xảy ra khiến 138 hành khách bị thiệt mạng, trong đó có 78 trẻ mồ côi người Việt và 35 nhân viên Văn phòng Tùy viên Quốc phòng (Defense Attache Office – DAO) người Mỹ tháp tùng.




Phi cơ vận tải C-5A Galaxy

cất cánh từ phi trường Tân Sơn Nhất



Người ta kể lại, khoảng 12 phút sau khi cất cánh từ phi trường Tân Sơn Nhất, một tiếng nổ phát ra từ phía đuôi của chiếc Galaxy, tạo ra một lỗ hổng lớn. Áp suất trong phi cơ thay đổi đột ngột và phi hành đoàn quyết định bay trở lại hướng Tân Sơn Nhất. Nhưng đã không kịp.



Phi cơ phải đáp khẩn cấp bằng bụng, trượt dài hàng trăm mét trên một ruộng lúa, đụng vào bờ đê và cuối cũng vỡ thành 4 mảnh. Một cột khói cao ngất xuất hiện trên bầu trời gần phi trường trước khi lực lượng tiếp cứu có mặt tại địa điểm xảy ra tai nạn.




Cột khói bốc lên sau khi chiếc Galaxy gặp nạn



Trực thăng cấp cứu bay đến An Phú Đông (nay thuộc quận 12), nơi phi cơ bị rớt. Đây là một khu vực ruộng lúa ngập nước và chỉ khoảng phân nửa số hành khách được cứu sống. Những người ngồi ở phần đuôi máy bay đều bị thiệt mạng. Thân thể họ nằm vương vãi trên một diện tích rộng hằng trăm mét vuông.




Xác của chiếc Galaxy tại khu vực An Phú Đông



Trực thăng cứu nạn chỉ bay lơ lửng trên đầu vì không thể đáp xuống ruộng lúa ngập nước. Những người sống sót, gồm phi hành đoàn, y tá và nhân viên thiện nguyện, phải lội ruộng, trên tay bồng những trẻ sơ sinh giữa những cơn gió xoáy của cánh quạt trực thăng.




Những trẻ mồ côi sống sót sau tai nạn



Nhưng rồi họ cũng chuyển được một số trẻ em lên trực thăng. Người ta vẫn tự hỏi, biết đâu tại nơi xảy ra tai nạn cũng còn những em thoi thóp nhưng người cứu nạn không nhìn thấy. Số phận của những trẻ mồ côi này cũng được coi như đã chết như những bạn đồng trang lứa vắn số khác. Đó là nghịch cảnh của chiến tranh. Khoảng cách giữa sự sống và cái chết rất mong manh.




Một thành viên Babylift năm xưa từ Mỹ trở về

đốt nhang tưởng niệm những người bạn đã tử nạn tại An Phú Đông




Bà Allison Martin [*] kể lại: “Ở phần đuôi máy bay đa số là trẻ em dưới 2 tuổi và có 7 nhân viên tình nguyện người Mỹ. Trong số những người sống sót, có đến 170 người bị thương tích nặng, trong đó có một cô bé sau này được báo chí nhắc đến qua tên Melody khi tài tử nổi tiếng Yul Brynner đã nhận làm con nuôi”.



Theo kế hoạch do Tổng thống Gerald Ford công bố, Operation Babylift sẽ sử dụng khoảng 30 chuyến bay - cả phi cơ quân sự lẫn dân sự - để di tản 70.000 trẻ mồ côi ra khỏi Việt Nam vào tháng 4/1975. Kế hoạch được tài trợ một ngân khoản 2 triệu đô-la từ quỹ hỗ trợ đặc biệt của chính phủ Hoa Kỳ.



Ông Gerald Ford đã xuất hiện trên truyền hình Mỹ khi đích thân đến phi trường San Francisco đón một trong những chuyến bay chở trẻ mồ côi từ Việt Nam đến. Trong mắt người dân Hoa Kỳ, hình ảnh ông bồng một đứa trẻ từ trên máy bay xuống đã vớt vát phần nào thể diện của một vị tổng thống trước biến cố 30/4/1975. 




Tổng thống Gerald Ford đón trẻ mồ côi

tại phi trường San Francisco



Tuy nhiên, có thể nói, Operation Babylift đã diễn biến không theo đứng kịch bản mà chính phủ Mỹ đã phác họa. Chiến dịch chỉ có thể di tản khoảng hơn 3.000 cô nhi thì phi trường Tân Sơn Nhất bị pháo kích và cuộc chiến Việt Nam đã chấm dứt vào ngày 30 tháng 4 năm 1975.



Tại Mỹ, tin tức về thảm họa Galaxy được coi là điềm xấu báo trước một biến cố còn nhiều kịch tính hơn nữa đối với miền Nam khi bị hoàn toàn sụp đổ. Thế nhưng, vào thời điểm 1975, người Mỹ không có cách nào khác hơn là tiếp tục chiến dịch Babylift trước tình hình chiến sự ngày càng nguy ngập.



Tân Sơn Nhất không còn thời gian để tưởng niệm những hành khách đi trên chiếc Galaxy định mệnh. Chỉ một ngày sau tai nạn, Operation Babylift được tiếp tục tiến hành. Một chiếc Boeing 747 được thuê từ hãng hàng không Pan American Ariways để chở 409 trẻ em và 60 nhân viên chăm sóc. Và cứ thế, các chuyến bay thuê với các hãng hàng không khác như United Airways, World Airways, Air America… liên tục bốc trẻ mồ côi ra khỏi Sài Gòn.



Làm thế nào để vận chuyển một số lượng khổng lồ hành khách gồm toàn trẻ em trong đó có cả trẻ sơ sinh là cả một vấn đề đối với các nhân viên di tản. Trong cuốn This Must be my Brother, Leann Thieman kể lại:



“Chúng tôi không có thì giờ cho các em ăn… đồng loạt bấy nhiêu cái miệng đều cất tiếng khóc… Cuối cùng, một sáng kiến được đưa ra: cứ 3 em được đặt trong thùng giấy carton và mỗi em có một bình sữa đặt trên vai người bạn nằm cùng thùng. Với cách này, có em bú thoải mái nhưng cũng có em gặp khó khăn khi bình sữa rơi khỏi miệng…



Tôi đặt một em bé gái trên đùi để em bú bình sữa còn tay kia cầm bình sữa cho một em khác nằm trong hộp nhưng hình như em không đủ sức để bú nên cuối cùng tôi phải dùng tay bóp vào núm vú cho sữa chảy mạnh…”   



Trên chiếc Galaxy đầu tiên rời Sài Gòn ngày 4/4/1975 những hành khách nhỏ tuổi nhất đều nằm trong hộp, được chằng bằng dây đai an toàn. Những “hộp người” đó nằm giữa lòng phi cơ. Những em lớn hơn ngồi trên hai hàng ghế bằng nhôm dọc theo thân tàu… Người lớn đi theo gồm nhân viên phi hành đoàn và những người tình nguyện làm việc một cách vất vả trong một trạng thái tinh thần căng thẳng khi tiếng súng đã vọng về từ các vùng lân cận quanh thủ đô.




“Hành khách” sơ sinh được để trong hộp carton



Miriam Vieni, một người hoạt động xã hội người Mỹ và cũng là mẹ nuôi của một trẻ mồ côi người Việt, nhớ lại:



“Sáng hôm nghe tin chuyến bay di tản đầu tiên bị rớt, một số bạn bè tụ họp tại nhà tôi để chờ nghe tin tức. Bỗng điện thoại reo liên tục, người ta hỏi thăm về thủ tục nhận con nuôi. Họ biết được số điện thoại của tôi qua một bài báo trên Newsday. Không chỉ qua điện thoại, có người còn đến tận nhà để lấy thông tin…



Người ta phấn khởi khi biết họ có thể nhận nuôi những trẻ Việt sẽ sang Mỹ một cách hợp pháp qua Operation Babylift và như thế là họ làm thủ tục nhận nuôi dù khi đó các em còn chưa lên máy bay rời khỏi Việt Nam.”



Cặp vợ chồng Pat và Dave Palmer từ Iowa kể lại việc làm thủ tục nhận con nuôi: “Khi nộp đơn xin con nuôi, chúng tôi phải tiến hành thủ tục một cách mau lẹ vì tình hình chính trị ở Việt Nam lúc đó quá rối ren. Rất khó có thể liên lạc bằng điện thoại với cơ quan FCVN [Friends of Children of Viet Nam] vì đường dây luôn bị nghẽn mạch. Chúng tôi phải dùng đến điện tín để liên lạc và kết quả là chúng tôi có một cậu con nuôi 1 tuổi. Không phải chỉ cuộc đời cháu bé mà chính cuộc đời chúng tôi cũng đã thay đổi từ đó”.



Tại Úc, trong bản báo cáo về tình trạng nhận con nuôi qua Operation Babylift, Ian Harvey cho biết: “Tháng 4/1975, khi có tin nước Úc sẽ tiếp nhận trẻ mồ côi Việt Nam làm con nuôi, một số gia đình người Úc đã vội vã nộp đơn. Riêng tại bang New South Wales là nơi đến của 14 trẻ Việt nhưng số đơn xin nhận con nuôi đã vượt con số 4.000”.



Theo báo cáo Ian Harvey, có trên 90% gia đình Úc có con nuôi người Việt ghi nhận sự thành công của việc họ nhận con nuôi. Tuy nhiên, đối với những gia đình tiếp nhận con nuôi từ 4 tuổi trở lên gặp khó khăn hơn những người khác vì càng lớn trẻ mồ côi càng khó thích nghi hơn với cuộc sống mới.    




Trẻ mồ côi đến Úc trong chuyến di tản ngày 17/4/1975



Ngay từ đầu tháng 4/1975, hàng loạt các tổ chức từ thiện trong đó có Holt International Children’s Services, Friends of Children of Vietnam, Catholic Relief Service, International Social Services, International OrphansPearl S. Buck Foundation thỉnh nguyện chính phủ Hoa Kỳ di tản trẻ mồ côi bị lưu lạc từ các trại mồ côi tại miền Trung đang bơ vơ giữa Sài Gòn hỗn loạn.



Cho đến bây giờ, vẫn chưa có con số chính xác trẻ mồ côi được di tản khỏi Sài Gòn vì tình hình rối ren lúc đó. Có khoảng 2.000 trẻ được đưa sang Hoa Kỳ và khoảng 1.300 trẻ được di tản đến Canada, Âu châu và Úc. Ngoài những chuyến bay chính thức, hằng ngày từ 4 đến 7 chuyến, còn có những chuyến bay bằng phi cơ nhỏ qua các hợp đồng kéo dài suốt tháng 4.




Những “hành khách” trên chuyến bay di tản



Dư luận Mỹ bị phân hóa vì những quan điểm đối chọi nhau về Operation Babylift. Thậm chí trên báo còn có những câu hỏi nhức nhối: Babylift or babysnatch?, tạm dịch là Di tản trẻ em hay giành dựt trẻ em?The Orphans: Saved or Lost? (Trẻ mồ côi: Cứu giúp hay Mất mát).



Trần Tương Như, một trong số ít người Việt sống tại Mỹ từ trước 1975 và cũng là một thành viên hỗ trợ đắc lực cho Operation Babylift tại San Francisco lúc đó. Bà Như và một số người tình nguyện khác đã khám phá một sự thật ngay từ những ngày đầu của Operation Babylift: một số nhỏ trẻ mồ côi được di tản sang Mỹ thực sự không phải là cô nhi, chúng được các gia đình khá giả gửi theo để được di tản sang Mỹ một cách an toàn.    



Sau này, đã có những vụ kiện tại Mỹ về những trường hợp trẻ em bị đưa khỏi Việt Nam “ngoài ý muốn của cha mẹ chúng”. Dĩ nhiên những người khởi kiện chính là các gia đình người Việt hiện định cư tại Mỹ.



Người ta cũng không loại trừ trường hợp trong tình trạng hỗn loại vào tháng 4/1975 nhiều gia đình bằng mọi cách gửi con đi theo chiến dịch di tản trẻ mồ côi và thời gian sau lại kiện các gia đình Mỹ đã nhận con cái của họ làm con nuôi như bà Như đã phát hiện từ đầu.



Một số người cho rằng việc di tản trẻ mồ côi Việt Nam, trong đó có cả những đứa con lai do hậu quả của chiến tranh, sẽ đem lại cho các em một cuộc sống tốt đẹp hơn so với nơi các em ra đời. Họ cũng cảm thấy Operation Babylift là nguồn an ủi tinh thần mang tính cách nhân đạo trước những hậu quả tàn khốc của cuộc chiến tranh Việt Nam.



Ngược lại, có dư luận cho rằng Operation Babylift là một chiến dịch hoàn toàn vì mục đích chính trị, thậm chí còn là “đòn chính trị cuối cùng” của chính phủ Mỹ trước khi rời khỏi Việt Nam.




Cảnh di tản chụp từ trong máy bay



Bà Miriam Vieni giải thích về những ý kiến tương phản nhau trong việc Operation Babylift đưa trẻ mồ côi người Việt sang Mỹ:



“Một số người cho rằng đưa trẻ em ra khỏi quốc gia nơi các em sinh sống là sự vi phạm quyền thiêng liêng của con người khi các em chưa đủ trí khôn để chọn lựa và quyết định. Một số người lại nghĩ những trẻ mồ côi người Việt phải được chính người Việt giải quyết. Trên TV, một số khác không ủng hộ việc chọn con nuôi khác nguồn gốc chủng tộc, họ còn đưa ra trường hợp tại sao không chiếu cố đến một số trẻ mồ côi người Mỹ gốc Phi còn đang chờ các gia đình Mỹ nhận nuôi”.   



Về phía các gia đình Mỹ nhận con nuôi người Việt cũng có những suy nghĩ cho rằng những đứa con mà họ nuôi nấng và dạy dỗ bấy lâu nay vẫn còn một hố sâu ngăn cách vô hình. Một cuộc khảo sát cho thấy những trẻ mồ côi có một cuộc sống khá đầy đủ trong suốt thời kỳ thơ ấu tại Mỹ. Đến gia đoạn trưởng thành, những đứa trẻ mồ côi ngày nào sẽ có những suy nghĩ và sự dằn vặt về cội nguồn của mình.


Thân phận của 3.000 trẻ em ngày đó đã và đang sống ra sao tại nước ngoài? Đó là câu hỏi ít khi người ta nghĩ đến. Nguyễn Thị Thanh Trúc là một trẻ thuộc Viện Mồ côi Ghềnh Ráng, Quy Nhơn. Năm 1975 Thanh Trúc được Operation Babylift bốc sang Mỹ và làm con nuôi một gia đình người Mỹ tại Seattle, tiểu bang Washington.



Với tên Julie, Thanh Trúc được nuôi dạy và lớn lên như bất kỳ một đứa trẻ nào trên đất Mỹ. Khác biệt duy nhất là Julie có vóc người châu Á nhỏ bé hơn so với các bạn bè đồng trang lứa. Hiện nay Julie đã lập gia đình với Brad Davis và trở thành bà Julie Davis.



Lần đầu tiên trở về Việt Nam cùng chồng trong nửa tháng trời, Julie kể lại: “Chuyến bay từ Mỹ về Việt Nam kéo dài hơn 20 giờ mà tôi có cảm tưởng dài đến 20 năm… Khi phi cơ đáp xuống phi trường Tân Sơn Nhất, Brad vỗ vai tôi, ý nhị: ‘Chúng ta đã đến nơi. Em đã về nhà’… Sau khi đi thăm Sài Gòn, Đồng bằng sông Cửu Long, chúng tôi về lại Quy Nhơn và đến tận Viện Mồ côi Ghềnh Ráng để thăm lại nơi xuất xứ của tôi…”



Cô nhi viện Ghềnh Ráng tọa lạc trong khuôn viên một nhà thờ và do các nữ tu phụ trách. Qua người thông dịch, Julie tìm lại được bà sơ Emilienne, người đứng tên trên giấy khai sinh của Thanh Trúc. Người nữ tu chỉ biết mẹ của Thanh Trúc đã qua đời ngay sau khi sinh con nên bà đứng tên trên giấy khai sinh cũng họ Nguyễn như bà. Cội nguồn của Julie chỉ có thế nhưng cũng đủ để cô tìm hiểu về quá khứ của mình.



Cuộc hội ngộ nào rồi cũng đến lúc chia tay. Julie viết: “Cuộc hành trình ngắn ngủi để tìm lại quá khứ của tôi đã chấm dứt nhưng dư âm của nó vẫn còn vĩnh viễn đọng lại trong tôi. Giờ thì tôi tự hào là người có gốc, cho dù nguồn gốc đó cách nơi tôi sinh sống đến nửa vòng trái đất”.



<!--[if !vml]--><!--[endif]-->


Các “Babylift” tại phi trường Tân Sơn Nhất năm 2005

(Ảnh của tác giả,




Tháng 4/2005, một đoàn du khách Mỹ gồm 38 người đã đến Việt Nam trong một chuyến du lịch được mệnh danh là “Operation Babylift—Homeward Bound 2005”. Điểm đặc biệt đoàn du khách này có 21 người trước đây là trẻ mồ côi trên các chuyến bay di tản, số còn lại là những người có liên quan đến Operation Babylift. Đặc biệt hơn nữa, trong số trẻ mồ côi ngày nào trở về quê hương có 3 em đã từng được cứu sống sau tai nạn của chuyến bay khởi đầu Operation Babylift.



Chuyến Hành trình về nguồn được hãng hàng không World Airways (WA) bảo trợ. WA, một trong những hãng hàng không đã tham gia Operation Babylift, đã liên lạc được với 21 trong số 57 trẻ mồ côi được WA chuyên chở khi rời Sài Gòn vào năm 1975 và đưa họ trở về thăm quê hương đúng 30 năm sau ngày được di tản.



Những hành khách đặc biệt này ngày nay đã thuộc lứa tuổi trên 30, đa số đã lập gia đình và có một cuộc sống ổn định như bao thanh niên trên đất Mỹ. Khác chăng chỉ là họ có một mối liên hệ từ tuổi ấu thơ với Việt Nam và khi trở về quê hương họ đã là những người trưởng thành.



Chuyến về Sài Gòn chỉ kéo dài 2 ngày (15 và 16/4/2005). Nhưng có điều chắc chắn chuyến trở về mang nhiều ý nghĩa đối với những người lúc ra đi chỉ là những đứa trẻ còn khóc oe oe trên các chuyến bay bão táp, thậm chí có trẻ còn nằm lọt thỏm trong hộp giấy. Trên chuyến trở về họ là những hành khách như bao hành khách khác nhưng mang một tâm trạng “hồi cố hương” sau 30 năm xa cách.



Câu chuyện Babylift mang âm hưởng một chuyện cổ tích giữa đời thực với đầy đủ “Hỷ - Nộ - Ái - Ố”. Tuy nhiên, câu chuyện có đoạn kết “có hậu”, rất hiếm gặp giữa đời thường.




Safi Thi-Kim Dub và Emma McCrudden đã may mắn sống sót trong chuyến bay ngày 4/4/1975 

(Ảnh My Lăng chụp năm 2005 trong chuyến “Hành trình về nguồn” thăm lại nơi xảy ra tai nạn)



***



[*] Allison Martin, Chủ tịch hiệp hội Families with Children from Vietnam (Gia đình có những trẻ em Việt Nam), mở một website http://www.adoptvietnam.org/ trong đó có rất nhiều bài viết về chiến dịch Babylift của các gia đình Mỹ cũng như các thành viên Babylift. Gia đình Martin có 3 người con, trong đó người nhỏ nhất là con nuôi từ Việt Nam năm 1997.





Bà LeAnn Thieman là người đã tham gia Operation Babylift, cuộc không vận các em cô nhi ra khỏi Việt Nam trước khi chế độ Saigon sụp đổ vào cuối tháng tư năm 1975.
Bà Thieman cho biết bà đã ngưng hành nghề y tá 9 năm nay. Hiện bà là một diễn giả chuyên nghiệp và đồng tác giả của nhiều tập truyện ngắn có mục đích đem lại nguồn an ủi cho mọi người.
Vào lúc xảy ra biến cố năm 1975, bà Thieman là một người tình nguyện làm việc cho một tổ chức từ thiện Bạn của Trẻ Em Việt Nam, một tổ chức toàn quốc quyên góp tiền và thuốc men quần áo để gửi cho các cô nhị viện ở Việt Nam. Họ có một cơ quan nhận con nuôi và khi họ cần đưa 6 em nhỏ về Mỹ thì họ sẽ nhờ những người tình nguyện như bà đi đón các em về nhà cha mẹ nuôi. Nhưng khi bà đến Việt Nam thì tổng thống Ford thời đó đã chấp thuận tiến hành Operation Babylift, và thay vì 6 em, bà đã đưa 300 em ra khỏi Việt Nam.
Bà Thieman nhắc lại chiến dịch này:
Bà Thieman nói rằng tổng thống Ford đã chấp thuận chiến dịch này vào đầu tháng 4 năm 1975. Lúc đó số trẻ mồ côi Việt Nam lên tới hàng trăm ngàn và nhiều cô nhi viện do các nước ngoài điều hành. Vào lúc chính quyền Việt Nam sắp sụp đổ, bom nổ ngay ngoại thành Saigon, nhiều người bỏ chạy khỏi nước. Để giúp chăm sóc các em, và vì người Mỹ cảm thấy có phần nào trách nhiệm, tổng thống Ford được yêu cầu chấp thuận Operation Babylift. Phải mất nhiều tuần lễ, nhưng tổng cộng gần 3 ngàn em bé đã được cứu và đưa ra khỏi Saigon và được các gia đình Mỹ nhận làm con nuôi.
VOA: Operation Babylift đã thay đổi cuộc đời bà như thế nào?
Nó đã đem lại rất nhiều thay đổi, trong đó có chuyện vợ chồng tôi đã làm đơn qua tổ chức này xin nhận một đứa con nuôi và theo dự trù chúng tôi phải chờ cả 1 hay 2 năm nữa.. Nhưng vì tình hình biến chuyển, lúc tôi sang đến Saigon thì được cho biết là tôi có thể vào chọn bất cứ em nào nhận về. Tôi đã vào một phòng của cô nhị viện, thì một em bé trai đã bò đến với tôi. Em ấy đã chọn tôi, vì thế tôi nhận nuôi đứa bé trai đó qua “Operation Babylift,” và nay cháu đã được 31 tuổi. Cuộc đời tôi đã thay đổi. Từ đó tôi đã trở thành một diễn giả chuyên nghiệp, kể những câu chuyện về “Operation Babylift” và những bài học về cuộc đời mà tôi học được qua đó. Và nay thì tôi giúp dùng những câu chuyện đó để đem lại thay đổi cho cuộc sống của những người khác.
Bà Thieman cho biết bà còn liên lạc với hàng trăm những em được đưa sang Mỹ làm con nuôi qua những buổi họp mặt được tổ chức kỷ niêm 10 năm, rồi kỷ niệm 20 năm, 25 năm và 30 năm. “Operation Babylift” đã là nguồn cảm hứng cho hai cuốn sách của bà Thieman. Cuốn “This Must Be My Brother” là câu chuyện thực về việc bà tham gia chiến dịch “Operation Babylift,” nói về việc nhận bé Mitchell về làm con nuôi, và đưa cháu về cùng 300 em bé khác trong cuộc phiêu lựu kéo dài với nhiều điều đáng ghi nhớ. Cuốn thứ hai có tựa là “Adrift in the Storms: A Twenty-Year Journey to Peace” nói về một em bé gái mà bà đã giúp đưa ra khỏi Việt Nam lúc đó. Cô bé đã gặp rất nhiều khó khăn lúc mới sang Mỹ, nhưng đến lúc 20 tuổi thì cô đã trở thành một phụ nữ được tái sinh, có hai đứa con và đạt được nhiều thành công trong cuộc sống rất tốt đẹp hiện nay.
Bà LeAnn Thieman cũng là đồng tác giả của nhiều tập truyện ngắn mang các tựa khởi đầu bằng “Chicken soup...”. Bà cho biết Chicken Soup for the Soul khởi thủy là một cuốn và nay đã ra thành một loạt 130 cuốn. Theo truyền thuyết mà bà nghĩ là trong cộng đồng Do Thái, thì người ốm thường cần phải ăn cháo gà, và người ta cho rằng cháo gà chữa bá bệnh. Vì thế hai tác giả Jack Canfield and Mark Victor Hansen đã có ý viết ra một cuốn sách mang tựa là Chicken Soup for the Soul. Đó là một tuyển tập 100 câu chuyện có thực được chọn trong các chuyện do độc giả gửi đến giúp nâng cao tinh thần người đọc. Cuốn sách trở thành phổ biến đến độ đã biến thành một thể loại riêng với các đề tài khác nhau. Chẳng hạn như “Chicken Soup for Mothers’ Soul,” “Chicken Soup for Fathers’Soul.”

Riêng bà Thieman đã đồng trước tác một loạt “Chicken Soup for the Chicken Soup for the Christian Woman's Soul, Chicken Soup for the Caregiver's Soul, Chicken Soup for Father and Daughter Soul, Chicken Soup for the Grandma’s Soul , Chicken Soup for the Mother and Son Soul và Chicken Soup for the Christian Soul 2 tuyển chọn từ mấy ngàn câu chuyện do độc giả gửi vào.

Bà Thieman nói về dự án mới nhất mà đang thực hiện là Chicken Soup for the Adopted Soul. Bà cho biết bà đang thu thập những mẩu chuyện có thật về bất cứ ai biết được một người được nhận làm con nuôi, hay đã nhận con nuôi, không phải chỉ nói về việc được nhận làm con nuôi, mà cả về những điều lý thú đã xảy ra trong đời. Tất cả những ai muốn đóng góp những mẩu chuyện này có thể truy cập mạng Internet ở địa chỉ www.chickensoup.com và sẽ có hướng dẫn để quý vị đó gửi bài.
Bà LeAnn Thieman nói bà chưa có dịp trở lại thăm Việt Nam, nhưng bà có ý định thực hiện một chuyến đi làm công tác y tế trong tư cách một y tá.
Cuối cùng bà Thieman ngỏ ý cảm ơn nhân dân Việt Nam. Bà nói trong thời gian xảy ra cơn hỗn loạn trong chiến tranh với nhiều đau khổ, thì 3000 trẻ mồ côi đã được cứu vớt, đất nước Việt Nam đã đóng một phần trong sứ mạng này. Nay nhìn lại đám trẻ đã được nuôi lớn ở nước Mỹ này, thành những người khỏe mạnh, hạnh phúc, thành công, và đóng góp trở lại cho xã hôi, bà cho rằng đó là một ân sủng đối với Hoa Kỳ.



Cẩm Lai là một cô gái sinh vào đầu năm, tháng 1 năm 1975. Đó là một cô gái có hình thức bên ngoài như người mẫu thời trang nhưng cô lại làm việc ở một nơi không hề dính dáng tới thời trang mà luôn kề cận với Tử Thần: đó là phòng chăm sóc đặc biệt của một bệnh viện trong thành phố. Khi mới ngoài hai mươi tuổi, Cẩm Lai đã một lần lên xe hoa nhưng vợ chồng chỉ sống với nhau được hai năm thì ly hôn vì Cẩm Lai bị bệnh đau tim, sinh đẻ sẽ nguy hiểm đến tính mạng, trong khi đó người chồng Cẩm Lai thuộc loại người thích con đàn cháu đống!...Đó là những gì tôi biết về Cẩm Lai, người hàng xóm cùng ngõ hẻm với tôi.

Thực ra thì tuy là cùng ở trong một con hẻm, nhưng những người có xu hướng “Hướng nội” như tôi hầu như không biết mấy về những cư dân ở xung quanh mình. Tôi biết khá rõ và thi thoảng có tiếp xúc với Cẩm Lai vì vợ tôi trước cùng làm trong Bệnh viện với Cẩm Lai và cả ông bố - tên Hài và bà mẹ Cẩm Lai -  tên Hà, - đều xấp xỉ tuổi tôi và cùng có sở thích chơi cờ Vua và thường “giao đấu” rất gay cấn nên thường qua mời tôi làm Trọng tài!

Những ngày cuối tháng ba vừa rồi, ông Hài nói với tôi: “Đầu tháng tư này, vào khoảng mùng 2, sẽ có gần 100 người từng là trẻ babylift từ nhiều quốc gia trên thế giới đến Sài Gòn để tham dự cuộc đoàn tụ “Hành trình trở về sau 35 năm lưu lạc nơi đất khách” do cô Kim Browne, người Anh gốc Việt, tổ chức. Sau đó, khoảng sáng mùng  6, đoàn Babylift sẽ có buổi giao lưu gặp gỡ với bạn đọc báo Tuổi trẻ tại Tòa soạn báo Tuổi trẻ. Nếu anh quan tâm đến vấn đề Babylift hãy đi cùng chúng tôi! Sẽ có nhiều chuyện bất ngờ và thú vị!”. Tôi đồng ý ngay và nói: “Hình như hai người chưa bao giờ nói với tôi thật kỹ về “Chương trình Babylift”? Ông có thể nói rõ hơn cho tôi nghe về cái vụ này và theo suy nghĩ của ông, nó là một chương trình nhân đạo hay bên trong là một toan tính gì khác?”. Ông Hài trầm ngâm một hai phút rồi mới thong thả nói: “Tôi tuy là “người trong cuộc” của cái “Chương trình Babylift”này ((tiếng Anh: Operation Babylift), nhưng tôi chỉ là một nhân viên quèn nên không thể có phán xét gì về cái chương trình Babylift này. Và ngay sau chuyến bay đầu tiên, chuyến bay định mệnh  C-5A đầy bi thảm, tôi đã thoát khỏi cái chương trình Babylift đó và muốn quên nó đi, muốn xóa nó khỏi ký ức!” – “Có những điều không thể xóa được và nó luôn là nỗi ám ảnh trong suốt quãng đời về sau!” – “Ám ảnh! Ông nói rất đúng, tôi luôn bị ám ảnh bởi tấn thảm kịch C-5A ấy! Thực ra thì đáng lẽ tôi đã mất mạng trong chuyến bay đầu tiên của chiếc vận tải cơ C-5A ấy bởi tôi là lái phụ. Song đến phút chót thì người ta lại thay bằng người khác và tôi được giao lái chính chuyến thứ hai… Là vận tải cơ lớn nhất thế giới thời điểm đó (có thể vận chuyển xe tăng và thậm chí cầu quân sự nặng 70 tấn), một chiếc Lockheed C-5A Galaxy được phái đến Sài Gòn trong sứ mạng Babylift từ căn cứ không quân Clark (Philippines) ngày 4-4-1975. Sau khi hơn 300 trẻ em và người lớn (trong đó có nhân viên Sứ quán Mỹ tại Sài Gòn) được đưa lên máy bay, C-5A bắt đầu rời đường băng. Cất cánh khoảng 67 phút và cách Tân Sơn Nhất chừng 64 km, C-5A bắt đầu bốc cháy sau tiếng nổ to ở cửa sau (C-5A đáng lý chỉ nên chở không hơn 100 em, bởi chiếc vận tải cơ không đủ mặt nạ

ôxy). Phi hành đoàn buộc phải quay lại Tân Sơn Nhất. Khi cách Sài Gòn khoảng 16 km, C-5A bắt đầu rơi, lướt đập vào bờ kè và gần như vỡ vụn! Chỉ có 170 người lớn và trẻ em sống sót với nhiều thương tích. Bà Hà và bé Cẩm Lai là hai người may mắn trong số 170 người sống sót sau thảm kịch đó. Thực ra tôi làm công tác cứu hộ cũng như những người khác, nhưng khi tôi thấy bà Hà đang bế bé Cẩm Lai đã ngất xỉu trên tay, bà nhìn tôi bằng ánh mắt rất lạ và nói giọng yếu ớt: “Anh hãy đưa hai mẹ con em đi khỏi chỗ chết chóc này, đi thật xa!”, rồi cũng ngất xỉu!”.

Ông Hài nói tới đó thì bà Hà đi tới, ngồi xuống bên cạnh, rót nước cho chúng tôi và nói: “Chiến dịch Babylift” – di tản trẻ mồ côi Việt Nam từ Sài Gòn sang Mỹ và một số nước khác hồi tháng 4-1975 – đã được Tổng thống Gerald Ford bật đèn xanh theo yêu cầu của nhiều tổ chức Công giáo Mỹ”. Tuy là nhân viên lâu năm của Cô nhi viện An Lạc (*), tôi cũng chỉ biết về “Chiến dịch Babylift” ngắn gọn như vậy! Nhưng qua những câu chuyện với các Ma-xơ khác, tôi hiểu đây là một chương trình rất lớn và đầy bí mật, chúng tôi chỉ được biết phần công việc của mình ở giai đoạn đầu là chăm sóc bọn trẻ khi chúng đến nơi ở mới! Tôi ngạc nhiên là sau thảm kịch của chuyến bay đầu tiên C-5A, chiến dịch Babylift không hề suy chuyển và xem chừng còn được xúc tiến mạnh hơn.Từ ngày 4-4 đến 19-4-1975, với 30 chuyến bay được thực hiện, chiến dịch Babylift mang được chừng 2.000 em đến Mỹ và 1.300 em đến Canada, châu Âu và Úc. Sau này tôi mới được biết, chiến dịch Babylift có tham vọng  lớn hơn những con số đó nhiều: mang 70.000 trẻ mồ côi Việt Nam ra khỏi Sài Gòn”.

Bà Hà uống một ly trà rồi trầm ngâm, như nhìn vào nơi vô định, nói nhỏ: “Tôi những tưởng sẽ quên đi được cái quá khứ đau buồn ấy nhưng quả là không thể quên được. Tôi cũng muốn gặp lại những đứa trẻ hồi ấy dù lúc đó chúng chỉ là trẻ sơ sinh, đứa nào cũng bọc trong tã lót trắng tinh, số phận chúng thật mỏng manh như làn gió nhẹ ban mai… Và chục đứa, trăm đứa như một, không  thể phân biệt được chúng với nhau. Nhưng cái cảm giác được nhìn thấy chúng đã là một người lớn thật kỳ lạ! Và mặc dù sẽ có nhiều chuyện buồn hơn chuyện vui, nhưng tôi vẫn muốn gặp lại chúng! À, cái cảm giác của tôi lúc gặp lại chúng hồi năm 2005 thật là lạ: tôi như là thời còn ở Cô nhi viện An Lạc và chúng thì như trở lại là những đứa trẻ sơ sinh!...Tại sao như thế, tôi cũng không hiểu! Vừa rồi, tôi có đọc một bài thơ ngắn của một đứa trẻ Babylift, thật là buồn. Đọc xong bài thơ, tôi cứ ngơ ngẩn hoài. Hình như tác giả là một cô gái. Tôi không còn nhớ tên tác giả nhưng thuộc ngay bài thơ:

Có một cánh cửa trong trái tim tôi,
Không khóa, không chìa, không biển báo
Cánh cửa mở ra một cánh đồng hoa
Đó là nơi cho người trong tim tôi.
Sau cánh cửa từng là tối đen
Cái lạnh rùng mình không sưởi ấm
Hạt mầm hi vọng tôi gieo
Mong một ngày sẽ biết.
Không cái tên nào, nơi nào, ngày nào, thời nào
Từ đó tôi là tôi
Và một nụ hôn người mẹ,
Đã có bao giờ đặt lên má tôi?
*
 Ngoài một số thành viên có mặt tại Việt Nam từ trước, những chuyến bay đầu tiên chở chín “trẻ babylift” hạ cánh xuống sân bay quốc tế Tân Sơn Nhất, TP.HCM trong hai ngày 1 và 2-4-2010. Ông Hài và bà Hà đều “đi đón” những “trẻ Babylift” ở sân bay.Rồi 10 giờ sáng ngày 6-4-2010, vợ chồng ông Hài, bà Hà và Cẩm Lai tới chỗ tổ chức buổi gặp mặt giao lưu do báo Tuổi Trẻ tổ chức. Tôi cũng muốn đi cùng vợ chồng ông Hài nhưng đúng sáng mùng 6-4, đôi chân đã từng lên rừng xuống biển không biết mỏi của tôi bỗng nhiên giở chứng, không chịu nhúc nhích!
Chiều tối, tôi qua nhà ông Hài bà Hà thì thấy ông Hài và Cẩm Lai đang ngồi nói chuyện với một người đàn bà trạc tuổi bà Hà và mới thoạt nhìn hao hao giống bà Hà. Còn bà Hà thì đang đi tới đi lui trong phòng, chốc chốc lại nói như là người tập thoại kịch. Điều kỳ lạ là những câu mà Hà đang “nói một mình” lại là những câu về “Chương trình Baby Lift”, chẳng hạn như:
-Ngày 3-4-1975, Tổng thống Hoa Kỳ là Geral Ford đã ban hành chương trình Baby Lift Orphan, ra lệnh cho quân đội Mỹ phải đưa tất cả các trẻ em ở các viện mồ côi rời khỏi Việt Nam. Và tính từ ngày 2 tháng 4 đến ngày 26 tháng tư, có tất cả  26 chuyến bay và 2548 đứa  trẻ được đưa đến Hoa Kỳ.

-Trong chiến dịch di tản đó, một điều vô cùng đáng tiếc đã xảy ra, một chiếc máy bay vừa cất cánh không bao lâu thì bị rơi ngay cạnh sông Sài Gòn khiến cho hơn phân nửa số người có mặt trên chuyến bay cùng với một số trẻ em mồ côi đã chết.
-Theo tôi được biết thì lúc bấy giờ một cánh cửa hông máy bay bị trục trặc và viên phi công đã lo lắng lắm vì chuyện này, nhưng ông ta được lệnh vẫn tiếp tục cất cánh… Chỉ 15 phút sau, cửa sau máy bay bật ra và mặc dù trong tình trạng như thế, ông ấy vẫn cố gắng quay lại ngay Sài Gòn, tiếc thay, đã không còn điều khiển được nữa và máy bay đâm xuống một cánh đồng ở bên sông Sài Gòn. Trên chuyến bay đó, có 230 trẻ em và một số nhân viên, cùng vợ con của họ, phân nửa đã chết, khoảng 180 em. Chuyến bay đó là C-5A và bị rơi vào ngày 4 tháng 4 năm 1975.
Khi thấy tôi tới nhà, ông Hài nói: “Bà Hà nhà tôi từ lúc về nhà đến nay, gần sáu mươi phút rồi, cứ chốc chốc lại “độc thoại” như thế, cứ như là không hề biết có chúng tôi đang ở bên cạnh! Tôi nghĩ phải đi gọi Bác sĩ Thần kinh tới xem thế nào?”. Nhưng Cẩm Lai nói ngay: “Cứ từ từ xem sao? Chắc mẹ con chỉ bị “chập mạch” một lúc là hết liền à! Chuyện này con đã gặp nhiều rồi!”. Nói rồi Cẩm Lai cầm lon nước ngọt trong tủ lạnh đưa cho bà Hà, bà mở lon nước rất bình thản, uống một hơi hết phân nửa lon nước cũng rất bình thản! Nhưng khi đưa lon nước còn lại cho Cẩm Lai xong thì … lại “độc thoại” như ban nãy!
Ông Hài giới thiệu với tôi người đàn bà mà tôi mới thấy lần đầu: “Đây là Ma-xơ Loan, trước cùng làm một chỗ với bà Hà nhà tôi!”. Ma-xơ Loan nhẹ nhàng chào tôi rồi nói: “Khi mới gặp tôi, bà Hà và tôi cùng nhớ lại tấn thảm kịch của chuyến bay C-5A. Không hiểu sao, chúng tôi như là cùng ở giữa gần 200 đứa trẻ sơ sinh người bê bết máu, có rất nhiều đứa bị đứt lìa chân tay, cả đầu nữa! Chúng tôi cùng lịm đi như là bị hút vào cái “Lỗ đen” vũ trụ! … Ngay lúc này đây, cứ nhắm mắt lại là tôi lại thấy những đứa trẻ đó, lúc thì như là tôi đang gói cuộn chúng lại trong những tấm tã lót rồi đặt chúng nằm ngay ngắn trong những hộp giấy cac-ton, lúc thì thấy chúng bị hất văng tung tóe khắp nơi!...”. Tôi có cảm giác như Ma-xơ Loan sẽ sa vào tình trạng “Kể chuyện một mình” như bà Hà nếu như đúng lúc đó, bà Hà không đột ngột dừng “độc thoại” mà đi tới bên Ma-xơ Loan, nắm chặt lấy hai bàn tay Ma-xơ Loan mà nói: “Sơ hãy cứu lấy bọn trẻ! Hãy đưa chúng đi khỏi chỗ chết chóc này!”, rồi bà Hà ngất xỉu!
Sáng hôm sau, tôi lại qua nhà ông Hài thì thấy ông đang ngồi uống rượu suông một mình. Còn bà Hà thì vẫn đi lại trong nhà và liên tục “độc thoại” như hôm qua. Tôi vừa định hỏi ông Hài xem Cẩm Lai đâu thì từ trong buồng vẳng ra tiếng đọc bài thơ hôm trước bà Hà mới đọc cho tôi nghe. Tôi nói với ông Hài: “Cẩm Lai thích bài thơ đó thế cơ à?”. Ông Hài cười méo mó: “Thích thì lại không có chuyện! Bây giờ nó cũng “đọc thơ” liên hồi như bà Hà vậy!”. Tôi giật mình và vụt nghĩ: Không biết ông Hài có thể giống như bà Hà và cô gái Cẩm Lai hay không?
*
Qua báo chí, tôi được biết có bộ phim Chiến dịch Babylift mà đạo diễn Trang Đài vừa làm xong, chuẩn bị trình chiếu trên truyền hình Úc SBS tháng sáu này. Bộ phim dài 52 phút của Trang Đài nhắm vào sự kiện này của chiến tranh vì như Trang Đài so sánh, chưa từng bao giờ có chuyện đưa trẻ em ra khỏi vùng chiến tranh như thế. Trang Đài nói: "Ngay cả sóng thần Indonesia người ta cũng không tổ chức di cư hàng loạt trẻ ra khỏi vùng thảm họa. Cả trong chiến tranh Iraq. Vậy mà điều đó đã xảy ra ở Việt Nam. Và giờ đây nhìn lại, tôi muốn đặt câu hỏi về tính phù phiếm của nó. Nó đã gây quá nhiều đau khổ".
Trang Đài cũng rời khỏi Việt Nam năm 1975, thời điểm lịch sử của những "đứa trẻ Babylift". Rời Việt Nam khi còn quá nhỏ, nên dù có gia đình, Trang Đài cũng dễ đồng cảm với cảm giác trống vắng, cô đơn của những đứa “trẻ Babylift”. Bộ phim Chiến dịch Babylift hoàn tất. Trang Đài nói cô rất mừng vì đã chắp nối được những mảng bối cảnh lịch sử cho những đứa trẻ mồ côi của “chiến dịch Babylift”. Chúng có quyền được biết điều gì đã xảy ra vào những ngày tháng 4-1975, tại sao chúng bị bứt khỏi cội rễ của mình để sống ở một nơi xa lạ. Chắc chắn là nhiều đứa trẻ có cuộc sống tốt, thậm chí rất tốt, nhưng cũng không ít đứa “trẻ babylift” phải trải qua những sư giày vò tinh thần dữ dội, những cảm xúc pha trộn giữa sự bối rối, giận dữ, bị ghét bỏ... Trang Đài nói cô hi vọng sau bộ phim, những "đứa trẻ babylift" sẽ tìm hiểu nhiều hơn về lịch sử và văn hóa đất nước ruột thịt của mình.Gần đây nhất, Trang Đài cho biết: "Tôi chưa thể hình dung phản ứng khán giả sẽ thế nào, nhưng khi chiếu cho một số "trẻ babylift" xem thử, họ khóc suốt bộ phim".
*
Khi tôi viết tới những dòng cuối của cái truyện ngắn này, tình trạng của bà Hà và Cẩm Lai vẫn chưa có gì biến chuyển. Tôi bảo ông Hài đã gọi Bác sĩ Thần kinh chưa thì ông Hài lại nói: “Bác sĩ Thần kinh cũng sẽ bó tay mà thôi! Theo tôi nghĩ, chỉ có một cách duy nhất là quay ngược thời gian trở lại ngày 1-4-1975 và không để cho Chương trình Baby Lift xảy ra!”.
Sài Gòn, Tháng 4-2010
 (*) Cô nhi viện An Lạc trước thuộc Biên Hòa, nay thuộc địa phận tỉnh Bình Dương.   



Red net on C141

Nhà văn Mỹ hé mở thêm sự thật về chiến dịch Babylift

Bà Dana Sachs, một nhà văn, nhà báo tự do, nhà biên tập và nghiên cứu lịch sử, là một người rất đam mê viết các đề tài về Việt Nam. Mới đây, nhân kỷ niệm 35 năm ngày chiến tranh Việt Nam kết thúc, bà đã cho xuất bản cuốn sách mới nhất có tựa đề “The Life We Were Given”, xin tạm dịch là “Cuộc đời được trao tặng”, một cuốn sách hé mở nhiều sự thật về chiến dịch sơ tán trẻ mồ côi khỏi Việt Nam, mang tên ‘Operation Babylift’, vào giao đoạn kết thúc cuộc chiến tranh Việt Nam năm 1975.


Bà Dana Sachs, một nhà văn rất đam mê viết các đề tài về Việt Nam
Bà Dana Sachs, một nhà văn rất đam mê viết các đề 
  • Cuộc trò chuyện với nhà văn Dana Sachs


VOA: Có lẽ rất nhiều người đã hỏi bà câu hỏi này, nhưng cũng có nhiều người khác muốn biết câu trả lời của bà, câu hỏi đó là ‘tại sao lại là Việt Nam?’ Tại sao bà lại thích viết về Việt Nam vậy?

Bà Dana Sachs: Đúng vậy, rất nhiều người hỏi tôi câu hỏi đó. Tôi sinh ra và lớn lên ở Mỹ, tôi sinh vào năm 1962, và những gì mà tôi biết về Việt Nam chỉ là về cuộc chiến. Tôi biết rất ít về Việt Nam, nhưng tôi biết rằng có những người lính Mỹ đã chiến đấu và hy sinh tại đó. Khi tôi lớn lên, tôi bắt đầu thích đi du lịch và đặc biệt là châu Á, và tôi đã dành 9 tháng để đi du lịch tới đó. Khi đó là vào những năm đầu của thập niên 1990, khi mà hai chính phủ Mỹ và Việt Nam mới bắt đầu hiểu nhau hơn đôi chút và cũng là lần đầu tiên người Mỹ được phép đến Việt Nam kể từ sau cuộc chiến.

Thật sự lúc đó tôi muốn đi một phần là vì cái cảm giác tội lỗi về cuộc chiến. Tôi nghĩ rằng nhiều người Việt đã chết trong chiến tranh và là một người Mỹ tôi phải có trách nhiệm đến tận nơi và tận mắt tìm hiểu sự thực về cuộc chiến đó. Nhưng khi chính mình đặt chân tới nơi thì tôi nhận ra rằng đó không phải là mảnh đất chỉ có chiến tranh. Việt Nam có một lịch sử lâu đời và một nền văn hóa phong phú. Tôi rất thích thú về điều đó và đã quyết định quay trở lại sống ở đó một thời gian để tìm hiểu về văn hóa với cái nhìn tách biệt khỏi cuộc chiến và tìm cách viết làm sao để độc giả Mỹ có thể hiểu về đất nước này một cách sâu sắc hơn, chứ không chỉ nghĩ đến cuộc chiến khi nghe nhắc tới cái tên Việt Nam.

Cuốn sách đầu tiên của tôi là dựa trên những trải nghiệm đó. Càng viết về Việt Nam, càng sống ở Việt Nam thì tình bạn của tôi với những người Việt càng sâu sắc hơn và ý tưởng viết về Việt Nam càng tuôn trào trong tôi, và tôi lại càng quan tâm và muốn tìm hiểu nhiều hơn về đất nước này.

VOA: Thế còn về cuốn ‘The Life We Were Given’? Thưa bà điều gì đã gợi cảm hứng để bà viết cuốn sách này vậy?

Bà Dana Sachs: Khi tôi nghiên cứu để viết cuốn “If You Lived Here”, tôi tìm thấy những bức ảnh trên Internet về chiến dịch sơ tán trẻ em khỏi Việt Nam có tên gọi là ‘Operation Babylift’. Những bức ảnh ấy đã cuốn hút tôi, bởi như tôi đã nói, tôi thích tìm hiểu về lịch sử và văn hóa chứ không phải cuộc chiến, nhưng tôi cảm thấy ngạc nhiên khi nhìn những bức ảnh về những đứa trẻ được đưa ra khỏi Việt Nam ngay trước khi cuộc chiến kết thúc vào tháng 4 năm 1975. Tôi tự hỏi tại sao trẻ em lại bị đưa khỏi Việt Nam ngay trước khi chiến tranh kết thúc và đất nước sẽ trở lại hòa bình? Vì vậy tôi đã quyết định tự mình tìm hiểu về sự kiện đó để xem điều gì đã thực sự xảy ra.

VOA: Bà đã tìm hiểu về sự kiện đó, vậy theo ý kiến riêng của bà, bà nhận xét thế nào về cách thức chiến dịch này được triển khai?

Bà Dana Sachs: Tôi cố gắng kể câu chuyện từ quan điểm của rất nhiều người khác nhau, những người mà cuộc đời của họ có liên quan đến sự kiện ấy. Có câu chuyện về chính những đứa trẻ ấy và về những người đã tổ chức những chuyến sơ tán để cố gắng để đưa những đứa trẻ ra khỏi Việt Nam, về những người cha, người mẹ đã phải từ bỏ con cái mình vì lo sợ con họ sẽ bị giết hại nếu ở lại Việt Nam và về cả về những gia đình đã nhận những đứa trẻ đó làm con nuôi.

Tôi nghĩ động cơ về việc thực hiện chiến dịch đưa trẻ em ra khỏi nơi nguy hiểm là rất nhân bản và tự nhiên, khi chúng ta nhìn những bức hình trẻ em trong những hoàn cảnh khó khăn thì chúng ta đều muốn giúp các em.  Nhưng vấn đề ở đây là chiến dịch babylift được thực hiện trong một giai đoạn vô cùng hỗn loạn. Cùng với những sự hoang mang, sợ hãi, đã có nhiều sai sót xảy ra mà sau này không thể sửa chữa được khi mà trẻ em đã được đưa khỏi Việt Nam và trao cho các gia đình nhận nuôi. Không hề có nỗ lực nào để tìm hiểu xem những đứa trẻ đó có còn cha, mẹ ở Việt Nam hay không, những người có thể muốn nhận lại con họ sau này, và vấn đề trở nên rất phức tạp.

VOA: Như thế có nghĩa là một số trẻ em trong danh sách các em bé này không phải là trẻ em mồ côi đúng không, thưa bà?

Nhà văn Mỹ hé mở thêm sự thật về chiến dịch Babylift
Nhà văn Mỹ hé mở thêm sự thật về chiến dịch Babylift
Bà Dana Sachs: Đúng vậy, hầu hết các em trong số đó, có thể vào khoảng 80%, là các em bé sống trong các trại trẻ mồ côi ở Việt Nam lúc đó, tuy nhiên có một số đáng kể các em vẫn sống với cha, mẹ trước đó, nhưng vì cha, mẹ các em hoảng sợ rằng các em có thể sẽ bị giết hại sau khi kết thúc chiến tranh. Vì vậy họ đã để con cái họ được đưa đi sơ tán với ý nghĩ để cứu mạng sống cho con mình. Tuy nhiên, khi con họ đã được đưa lên máy bay và đưa đi rồi thì họ không còn có thể thay đổi được quyết định của mình nữa và không thể đưa được con cái họ quay trở về.

VOA: Vậy có phải chính những lời đồn thổi và chiến dịch tuyên truyền đã càng làm tăng thêm sự hoảng loạn vào thời điểm đó không thưa bà?

Bà Dana Sachs: Chính xác là vậy. Vào những tuần lễ cuối cùng của cuộc chiến, có rất nhiều lời đồn ở miền nam Việt Nam, đặc biệt là về những đứa con lai Mỹ. Có những lời đồn như là ‘cộng sản sẽ vào miền nam, họ sẽ đi tìm những đứa con lai của những người lính Mỹ, và họ sẽ moi gan, mổ bụng những đứa trẻ đó’. Những lời đồn về những điều vô cùng dã man như vậy đã khiến những gia đình, đặc biệt là những bà mẹ có con với những binh sĩ Mỹ, thực sự sợ hãi rằng con cái họ sẽ bị giết hại, vì vậy mà họ đã để con mình được đi sơ tán. Sau khi cuộc chiến kết thúc thì rõ ràng là cộng sản đã không giết hại những đứa trẻ đó. Mặc dù những bà mẹ này nhận ra rằng có thể cuộc sống của con cái họ sẽ gặp khó khăn nếu ở lại Việt Nam nhưng chắc chắn là con họ sẽ không bị giết hại, họ muốn nhận lại con mình, nhưng lúc đó thì đã quá trễ rồi.

VOA: Bà có thể kể đôi chút cho thính giả đài VOA nghe về cô bé có mái tóc vàng và người phụ nữ tóc đen trên bìa cuốn sách, được không thưa bà?

Bà Dana Sachs: Vâng, chắc chắn rồi. Người mẹ đó tên là Hân, bà có 7 người con, gia đình bà sống ở Đà Nẵng. Khi đó, bà làm công việc giặt là ở đại sứ quán Mỹ và bà đã quen biết một binh sĩ Mỹ. Bà đã có một đứa con với người này, đó chính là đứa bé trong bức hình. Cũng như những người khác bà cũng nghe những lời đồn về việc cộng sản sẽ giết trẻ em là con lai Mỹ, vì vậy bà đã bán tất cả mọi của cải và dẫn theo những đứa con đi tàu biển vào Sài Gòn để đứa con út của mình được đưa tới cơ quan nhận con nuôi và được đưa ra khỏi Việt Nam. Đứa trẻ sau đó được đưa sang Hoa Kỳ và được một gia đình Mỹ nuôi nấng.

Nhiều năm sau, khi người mẹ đó thấy có nhiều người nước ngoài tới Việt Nam, bà đã mang theo giấy tờ về đứa con mình đi khắp phố phường Đà Nẵng, và khi gặp bất cứ người nước ngoài nào bà cũng nhờ họ tìm kiếm giúp con gái của mình. Cuối cùng sau nhiều năm, bà đã gặp một nhân viên Hội Chữ thập Đỏ, ông ấy đã giữ những thứ giấy tờ đó và hứa sẽ tìm cách giúp bà. Vài tháng sau đó, Hội Chữ thập Đỏ đã tìm thấy người con bà và đã giúp hai mẹ con họ liên lạc với nhau.

VOA: Thật là một câu chuyện cảm động. Xin cảm ơn bà. Trước khi kết thúc cuộc trò chuyện này, bà có muốn nói điều gì đó bằng tiếng Việt với thính giả và độc giả người Việt Nam không thưa bà?

Bà Dana Sachs: Khi tôi viết sách, tôi viết bằng tiếng Anh vì tiếng Việt của tôi rất là kém. Tôi rất muốn người Việt Nam có dịp đọc sách của tôi vì truyện này về trẻ em mồ côi Việt Nam, đó là lịch sử của người Việt Nam và nước Việt Nam, vì vậy tôi nghĩ là người Việt Nam sẽ nghĩ truyện này hay.

VOA: Xin cảm ơn bà rất nhiều.

Quí vị có thể tìm hiểu thêm về bà Dana Sachs cùng các tác phẩm khác của bà ở địa chỉ: http://www.danasachs.com/index.htm